Năm vừa qua chứng kiến sự gia tăng đáng kể của giới thanh niên lập nghiệp nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long từ bỏ công việc ở các khu công nghiệp Bình Dương, Đồng Nai, Long An… để rẽ sang một hướng mới mà cũ, về quê. Họ nhận ra rằng, vốn liếng duy nhất trong đời sống của họ là văn hóa gốc từ quê hương, ngôi nhà cha mẹ và xóm giềng đang trú ngụ.

Từ vốn liếng đó, có thể sinh lời hay không còn tùy thuộc vào tài năng mỗi người. Chỉ biết rằng, với việc internet phủ rộng toàn bộ đồng bằng và mỗi người đều có smartphone trên tay thì làm ra tiền không có gì khó, thanh niên miệt vườn không còn phải “sống mòn” trong các khu công nghiệp, cơm công nghiệp và tiếng chuông cùng là ám ảnh trừ tiền lương mỗi tháng nữa.

Cũng chỉ được giới thiệu qua mạng xã hội, chúng tôi được em Mai Thi - một cư dân gốc của cù lao Cồn Sơn, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ đón ở bến tàu, đưa sang trải nghiệm một tour du lịch ngắn miền sông nước. Đứng bên này sông Hậu nhìn sang, Cồn Sơn như một con thuyền lấp lánh xanh tươi trên mặt nước, gần đấy mà cũng phải một chuyến đò băng ngang cỡ 15 phút mới qua được.

Trong đời sống văn hóa vùng 9 cửa sông Rồng tồn tại một khái niệm “người cù lao”. Đó không hẳn là những người có nếp sống phù du trôi dạt, rời cố hương để đến sinh cơ lập nghiệp trên các vùng đất bồi nổi, mà hơn thế, những con người cù lao thường bảo lưu nguyên vẹn cội nguồn, như nếp sống nhớ thương miền cũ, chắt lọc tinh hoa văn hóa để tạo nên một bản thể văn hóa mới trên những miền đất mới.

Chiến lược phát triển vùng du lịch của Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay tiếp tục dựa một phần lớn vào văn hóa đặc trưng của các vùng sông nước cù lao mật độ dày khắp Nam Bộ. Các tuyến du lịch miệt vườn cây trái, đồng bưng, chợ nổi, làng nghề, ẩm thực thủy hải sản vàm rạch... đều nằm ở các cù lao lớn như Thới Sơn (Tiền Giang); Minh, Bảo, An Hóa - ba cù lao lớn của Bến Tre; cù lao An Bình (Vĩnh Long); cù lao Dung (Sóc Trăng); cù lao Cồn Sơn (Cần Thơ)…

Đặc biệt, từ đầu năm 2020, tuyến du lịch liên kết các vùng cửa sông, cửa biển bắt đầu hình thành quy mô, xâu chuỗi nguồn lực này từ các địa phương. Trong đó, loại hình du lịch mới ra đời là tham quan trải nghiệm các khu rừng ngập mặn ven bờ cù lao, thưởng thức thủy hải sản và chèo thuyền, đi xe đạp..., gần gũi với thiên nhiên, đề cao lối sống xanh để cân bằng lại nhịp độ cuộc sống.

Sau nhiều thập kỷ Đồng bằng sông Cửu Long chú trọng phát triển vùng sản xuất hàng hóa và chuyên canh nông nghiệp năng suất cao, thì giờ đây, tiềm năng du lịch mới được nhìn nhận đúng mức. Các vùng đất ven biển bắt đầu trỗi dậy, kéo theo nhiều dịch vụ đi kèm, mà cách đây vài năm thôi, đó chỉ là những vùng đầm lầy hoang vu, ít người lui tới.

Cù lao Cồn Sơn hiện có khoảng 40 hộ gia đình làm du lịch, tham gia vào mô hình hợp tác xã du lịch nông nghiệp. Cồn Sơn “nổi như cồn” trên bản đồ du lịch Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng cũng chỉ vài năm nay, đời sống du lịch mới đi vào quy củ, vang tiếng gần xa. Trẻ em ở Cồn Sơn giờ vẫn qua sông đi học vào trong TP. Cần Thơ không mất tiền đò phà cùng nhiều hỗ trợ khác để người Cồn Sơn có thể an cư lạc nghiệp trên cù lao.

Dân cù lao Cồn Sơn huấn luyện cá làm xiếc nhằm tạo ra sự độc đáo, khác lạ để làm du lịch. Xiếc cá bắt nguồn từ tập quán của người dân Cồn Sơn nuôi cá nước ngọt đến mức am hiểu được tập tính sinh trưởng của các loài thủy sản. Từ việc nuôi và cho cá ăn hàng ngày, dần rồi bắt chúng phải nhảy lên đớp mồi. Lúc đầu, người nuôi cá cũng không hề biết mình đã huấn luyện thành công cá lóc bay, cá lóc nhảy, bú bình, săn mồi trên ván gỗ..., sau rồi thấy khách du lịch rất thích các màn xiếc cá, người và cá mới say sưa ngày càng phục vụ khách nhiều trò. Có những người dân cù lao như ông Lý Văn Bon (Bảy Bon) có thể thuyết minh cho khách du lịch nghe cả tiếng đồng hồ về hàng trăm loại cá mà không phải nhìn vào tài liệu nào. Từ tập tính săn mồi, khả năng thích nghi, mùa sinh sản, giống tốt, tính bầy đàn... đến việc trên bàn ăn giá cá dành cho thực khách đắt rẻ ra sao.

Ông Bảy Bon chắc am hiểu cá hơn bất cứ nhà nghiên cứu đại dương nào. Ông không hẳn là người nuôi cá, phải gọi ông là nghệ sĩ huấn luyện cá mới đúng. Riêng bè cá của ông hiện vẫn thả đủ loại để khách du lịch giỡn với chúng, thò chân xuống cho chúng mát-xa, ngắm nhìn cá bảy màu lượn trong làn nước trong veo của sông Hậu.

Huấn luyện được cá cần kiên trì tối đa, quen thuộc đến mức không cần tạo tiếng động kêu cá lên, chúng cũng nhảy múa loạn xạ. Không cần phải đói chúng mới làm xiếc - người nuôi cá nói. Thanh niên cho cá ăn để chúng nhảy lên đớp mồi nhắc khách du lịch sẵn sàng smartphone để quay phim. “Cá sắp nhảy nè, chúng còn bay lên cả mét đó”, sẵn tính nổ váng trời của dân cù lao, người huấn luyện xiếc cá nói thêm.

Người Cồn Sơn cho rằng, cá đã được huấn luyện để làm xiếc cho khách xem đến một thời gian nào đó, thấy đủ thì họ thả cá về sông, trả tự do cho cá xiếc, không ăn chúng và cũng không nhốt chúng mãi. Đây là cách nghĩ kiểu người cù lao: Thả về sông lớn thì cá mới sinh sôi, khai thác cá cũng không kiểu tận dụng, tận diệt. Cá đã phục vụ người rồi thì chúng sẽ được tự do, nhằm hồi phục lại tập tính sinh sản. Săn cù lao Cồn Sơn là nơi chỉ cần trải nghiệm một tour du lịch ngắn, du khách có thể hiểu cả nhân sinh quan của văn hóa đất và người cù lao Nam Bộ.

Sang được bên cù lao rồi, nhớ phải ăn lại món ăn đặc trưng là lẩu cù lao, chỉ khi có đám tiệc thôi, vì món này làm rất cầu kỳ. Lẩu chỉ gồm cá và các loại rau nhúng lẩu của vùng sông nước. Nào là bông súng, bông điên điển, so đũa, lục bình, rau đắng, thèo nèo… Gọi là lẩu cù lao vì cái nồi cũng kỳ lạ, có thể cho than củi cháy dở vào giữa nồi để nhiệt lượng toả ra xung quanh, sôi sùng sục rồi vừa ăn vừa tám chuyện, cùng chén rượu đế trên mênh mang sông nước. Cứ thế mà dân cù lao vui sống qua bao mùa lũ dâng cao trên các triền sông, ngập cả cây trái, cá tôm gì lúc đó cũng trôi ra cửa biển cả.

Vậy mà dân cù lao chẳng bao giờ đói. Người cù lao tư duy phóng khoáng, giản đơn, rộng rãi với khách đường xa. Thanh niên Nam Bộ trước đây bươn chải đi làm công nhân khu công nghiệp rất nhiều, nhất là mùa nước nổi mênh mông trắng đồng, biết làm gì ngoài ăn cá, nhìn sông? Nay thì tư duy thay đổi, các cù lao Nam Bộ giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp để làm du lịch, văn hóa cù lao trở thành đặc sản của du lịch phương Nam.

Trong lòng các cù lao là bè cá, vườn cây trái mỗi mùa mỗi thức. Cù lao nào cũng kinh doanh du lịch, homestay, liên kết lại thành hợp tác xã, cho khách du lịch nhậu tại vườn, ăn trái cây trên cây. Bởi vậy, cù lao không khi nào thôi hấp dẫn.

Mà đi hết được các cù lao Nam Bộ chắc mỏi!